4) Không có “blocking effect”
Đây là điểm khác biệt vô cùng quan trọng giữa copyright và sáng chế (hay cả với kiểu dáng, nhãn hiệu blah blah). Nếu bạn tự làm một bài thơ giống hệt với bài thơ trước đó đã được bảo hộ copyright của người khác, bạn KHÔNG BỊ coi là xâm phạm. Nếu bạn dùng một sáng chế do bạn tự sáng tạo ra, nhưng sáng chế đó lại trùng với một sáng chế của người khác đang được bảo hộ, bạn BỊ coi là xâm phạm. Đó, ta nói sáng chế có “blocking effect”, còn copyright thì không. Nói cách khác thì copyright chấp nhận sự “sáng tạo độc lập” (independant creation), còn với sáng chế thì kể cả bạn tự sáng tạo ra, nhưng nếu nó đã trùng với cái của người khác đã có trước đó rồi, thì vẫn chúc mừng bạn vào ô mất lượt.
Việc không có “blocking effect” khiến cho những vụ tranh chấp copyright phức tạp hơn rất rất nhiều. Thay vì chỉ cần so sánh hai tác phẩm giống nhau như thế nào (như cách người ta so sánh sáng chế hay nhãn hiệu), thì yếu tố then chốt hơn là phải chứng minh bị đơn có thực sự sao chép của nguyên đơn không, hay chỉ vô tình mà hai người tự tạo ra hai tác phẩm giống nhau. Đương nhiên là các tòa án ở nước ngoài họ nghĩ ra đủ kiểu test để có thể chứng minh hành vi sao chép (act of copying), nhưng trừ khi bị bắt quả tang, còn chẳng test nào đảm bảo chứng minh được 100% liệu có hành vi sao chép xảy ra hay không.
5) Va chạm với nhiều quyền cơ bản của con người
Khác với các quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng, bí mật kinh doanh, hay nhãn hiệu vốn là những quyền liên quan nhiều đến kinh doanh thương mại, copyright lại gắn liền với dấu ấn cá nhân, với văn hóa nghệ thuật, và vì thế nó động chạm đến rất nhiều các quyền cơ bản của con người (tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do nghệ thuật, và quyền riêng tư). Trong các tranh chấp về sở hữu công nghiệp, mọi người có thể chỉ tập trung vào đánh giá các yếu tố kỹ thuật (tạm gọi là mặt “lý”), còn với copyright thì mọi người không thể bỏ qua câu chuyện là “à thì tôi cần sao chép tác phẩm này để thể hiện quan điểm cá nhân của tôi”, “tôi cần parody tác phẩm kia để thể hiện dấu ấn nghệ thuật của cá nhân tôi và làm phong phú thêm văn hóa nước nhà”, hay “tôi cần sao chép một phần các tác phẩm để đưa tin về sự kiện nghệ thuật” (tạm gọi là mặt “tình”).
Nói những cái sau là “tình” thì cũng không hẳn đúng, vì nó dựa trên những quyền cơ bản của con người thật, là quyền hiến định, nhưng những quyền này thường được thể hiện một cách rất chung chung, mang tính khẩu hiệu. Thêm nữa, quyền được bảo hộ IP (bao gồm copyright) cũng là một quyền cơ bản của con người, cũng hiến định, vậy khi có xung đột giữa những quyền cơ bản với nhau thì cái nào thắng cái nào? Chịu. Các tòa án nước ngoài thường sẽ áp dụng “balance approach”, qua đó chấp nhận việc là mỗi quyền cơ bản sẽ phải bị nhượng bộ đôi chút để gặp nhau ở một điểm tạm gọi là “cân bằng”. Nhưng thiên hạ ở ngoài rất là ác mồm, và họ sẽ luôn có cách để nói là phán quyết này, phán quyết kia còn lâu mới đạt được đến cái “cân bằng” đó.
Vấn đề này cũng được phản ánh phần nào qua hiện tượng lạm dụng “quyền nhân thân” (moral rights) làm ảnh hưởng đến các hoạt động giao dịch và khai thác “quyền tài sản” (economic rights) trong copyright, ví dụ như dùng quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm (integrity) để can thiệp vào quyền làm tác phẩm phái sinh (adaption).
6) Khái niệm “sáng tạo” ngày càng bị đặt dấu hỏi
Tính “nguyên gốc” (originality), một điều kiện tiên quyết để được bảo hộ copyright, thường được hiểu là “sáng tạo” (creativity), một ít “sáng tạo” thôi cũng được (a modicum of creativity). Nhưng liệu chúng ta có thể sáng tạo từ “không gì cả” (vacuum) hay không, hay chúng ta chỉ có thể sáng tạo được từ tập hợp những thứ đã biết thôi? Và nếu chúng ta chỉ sáng tạo từ những cái đã biết (đã thấy, đã nghe, đã đọc – chắc chắn là bao gồm các tác phẩm của người khác), thì điều gì có thể giúp khẳng định liệu (1) ta được truyền cảm hứng từ những thứ đã biết đó để tạo ra cái mới (inspiration), hay (2) ta chỉ đơn giản là sao chép lại tập hợp những thứ ta đã biết đó để tạo ra cái mới (copy).
Điều này khá thường xuyên xảy ra trong âm nhạc khi mà ta luôn tìm được những bài hát nhang nhác nhau, và nhạc sĩ có thể cũng mạnh dạn thừa nhận là họ “bị ảnh hưởng” hoặc “được truyền cảm hứng” từ những người đi trước. Thế nhưng, liệu như thế có đủ để gọi là “copy” hay không, hay chỉ đơn giản là “inspiration” (và có nghĩa là vẫn “original”) thôi, thì các bên cứ cãi nhau đến mai. Hoặc nếu bây giờ ta cho con người một bộ nhớ vô hạn có thể nhồi nhét mọi data (input) trên cuộc đời này vào đầu nếu muốn, liệu ta có còn tin cái họ tao ra (output) là một tác phẩm có tính sáng tạo hay không?

Trong sách “Intellectual Property and the Brain: How Neuroscience Will Reshape Legal Protection for Creations of the Mind”, tác giả Mark Bartholomew cũng có nói về việc các phán quyết của tòa án trong quá khứ (ví dụ như phán quyết vụ Feist tại Hoa Kỳ – nói rằng việc đi thu thập thông tin danh bạ điện thoại rồi sắp xếp theo một quy luật thông thường là alphabet thì không có bất kỳ yếu tố sáng tạo nào), đã vô hình chung khiến chúng ta bị một ấn tượng sai lệch rằng sáng tạo (trong context copyright) là phải từ những khoảnh khắc thiên tài, những sự lựa chọn đầy ngẫu hứng, nhưng thực tế người càng giỏi chuyên môn, càng hiểu biết sâu, thì lại càng dễ cho ra các sáng tạo chất lượng. Vì thế, một nghịch lý được đặt ra là: các tác phẩm sáng tạo càng chất lượng càng dễ bị “soi” liệu đây là sản phẩm của “inspiration” hay “copying”. Cũng xin mượn luôn ý trong sách này để chốt, “sáng tạo” là một khái niệm chủ quan (chỉ người đó mới biết thực sự họ có sáng tạo không, hay họ chép của người khác), nhưng chúng ta đang dùng những yếu tố khách quan để đánh giá và quyết định nó – điều này có thể sẽ được thay đổi khi khoa học thần kinh (neuroscience) phát triển, được phổ cập, để có thể dựa trên việc chụp/quét não giúp đánh giá liệu điều gì đã thực sự xảy ra: sự sáng tạo hay chỉ đơn giản là sự sao chép.
(Còn tiếp – hy vọng thế hic hic)
© 2024. Minh Hung Tao. All rights reserved.


Leave a comment