Từ một cái myth huyền thoại
Nếu từng là sinh viên, chắc chắn bạn đã nghe về chuyện sinh viên được quyền photo giáo trình để phục vụ mục đích học tập cá nhân, không cần xin phép hay trả tiền gì hết. Mà chẳng phải nghe đâu, chắc chắn chúng ta đã từng làm việc này, và nếu có mảy may nghĩ đến quyền tác giả, thì chúng ta cũng sẽ nghĩ mình đúng (và có thể cho rằng những nơi cấm học viên dùng sách photo là hãm…).
Giả sử bạn là chủ sở hũu quyền tác giả đối với một cuốn giáo trình về Biotech. Nếu bây giờ tất cả các sinh viên, giảng viên ngành Biotech đều photo một quyển để phục vụ mục đích học tập/giảng dạy cá nhân, vậy sách sẽ bán cho ai? Bán cho những người mà sẽ không dùng sách phục vụ mục đích học tập cá nhân – ủa họ mua làm gì? Mà chung quy thì sách nào chẳng để phục vụ học tập/giảng dạy cá nhân? Chúng ta bắt đầu thấy cái gì sai sai rồi đúng không?
Ơ nhưng có gì mà sai nhò!? Quy định lù lù trong Luật SHTT là “tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại” thì không phải xin phép hay trả tác quyền còn gì. Luật mới yêu cầu việc sao chép đó không được tiến hành bởi thiết bị sao chép chứ gì, OK fine, tôi chép tay, vừa lòng bạn chưa. Đấy, những ai chỉ đọc khoản 1 của Điều 25 đều sẽ nói thế đấy, nhưng đây mới chỉ là ⅓ cái bánh mì thôi.
Thế chuyện là như nào
Ngay dưới Khoản 1 Điều 25, Khoản 2 quy định rằng các hành vi ngoại lệ này cần đảm bảo “không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm” và “không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả”. Nếu bạn từng nghe về khái niệm “phép thử ba bước” (three-step test) do Công ước Berne và Hiệp định TRIPS đặt ra, thì khoản 1 là bước đầu tiên, và khoản 2 là bước 2 và bước 3. Hai bước cuối này chính là để nhằm giải quyết vấn đề nan giải trong ví dụ về cuốn giáo trình Biotech đề cập trên đây.
Cơ mà cũng chẳng giải quyết nổi. Đọc hai cái bước thử hai và ba kia các bạn có thấy dễ hiểu không? Bạn có nghĩ là trước khi quyết định sao chép một quyển giáo trình, bạn có thể kẻ sơ đồ, phân tích hiệu ứng cánh bướm, giải vài con đạo hàm để cân nhắc được liệu hành vi sắp tới của mình có “mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm” (bước 2) hay “gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền” (bước 3) không? Mình cá là đến lúc bạn giải được thì bạn cũng chẳng cần phải photo cái quyển giáo trình kia nữa đâu, vứt cmn đi thôi.
Bước lên thêm từng bước nào
Nếu người ta viết sách Biotech nhằm để bán và thu lợi từ sinh viên ngành Biotech, thì rõ ràng việc mỗi sinh viên cứ tự photo một bản để dùng (thay vì đi mua) chắc chắn không thể thỏa mãn hai bước thử này được. Nhưng liệu có cách sử dụng chùa nào thỏa mãn bước thử 2 mà lại trượt bước thử 3 hay ngược lại hay không, hai bước thử này thì khác gì nhau?
Trong các quy định về quyền tác giả của Luật SHTT, quy định về ngoại lệ này đáng lẽ ra phải là quy định dễ hiểu nhất, bình dân nhất để ai cũng có thể làm theo, nhưng cuối cùng nó lại trở thành một quy định quá phức tạp, ngay cả cho những người có hiểu biết về IP và cả các nhà làm luật. Chính vì nó quá phức tạp mà nhà làm luật quyết định ném thẳng nó vào trong luật và để anh em tự cân nhắc, thay vì do your magic để làm nó dễ hiểu hơn. May mắn cho các nhà làm luật (và không may cho những người làm nghiên cứu) là gần như chưa có bất kỳ một vụ kiện tụng nào ở Việt Nam liên quan đến các ngoại lệ này. Và vì thế cái gì ở đâu thì vẫn ở nguyên đấy suốt từ khi Luật SHTT 2005 ra đời.
Thực tế thì Công ước Berne và Hiệp định TRIPS đặt ra 2 bước thử cuối này không phải là để các quốc gia đưa y hệt vào trong luật như chúng ta và một số quốc gia khác đang làm, mà là để các quốc gia cân nhắc và sau đó điều chỉnh và đặt thêm điều kiện (qualify) cho các trường hợp hưởng ngoại lệ. Nói cách khác thì đáng lẽ ra chúng ta đã không thấy 1 câu chung chung như “tự sao chép một bản phục vụ mục đích học tập cá nhân” kèm theo nguyên văn 2 bước thử cuối này ở trong luật, mà thay vào đó là các trường hợp hưởng ngoại lệ vô cùng chi tiết, vát trên vát dưới, định lượng định tính các kiểu để “ready-to-follow”. Nhưng khi mà các nhà làm luật chưa đủ khả năng và thời gian để qualify chi tiết cho các trường hợp hưởng ngoại lệ, thì cứ giữ lại nguyên văn hai bước thử cuối trong Luật SHTT cũng là một cách ổn để bảo vệ Việt Nam khỏi những vụ kiện tụng ở tầm quốc tế do không tuân thủ Công ước Berne. Dù chẳng ai thực sự làm theo, thậm chí chẳng ai từng đọc đến nó…
Vậy làm sao để qualify các trường hợp ngoại lệ dựa trên hai bước thử cuối này? Trước tiên cần làm rõ hai bước thử này ứng vào từng trường hợp ngoại lệ sẽ có những ảnh hưởng khác nhau. Ví dụ như ngoại lệ về trích dẫn hợp lý rất dễ để thỏa mãn hai bước thử cuối này mà không cần phải qualify quá chi tiết, vì khi trích dẫn tác phẩm (ví dụ như trích dẫn trong các nghiên cứu khoa học) thì thường không có xung đột gì về lợi ích với chủ thể quyền được trích dẫn cả. Nhưng với sao chép cá nhân (private copying), câu chuyện sẽ phức tạp khi chúng ta vô hình trung “cạnh tranh trực tiếp” với “việc làm ăn” của chủ thể quyền – và vì thế việc qualify trường hợp này sẽ trúc trắc hơn, kết hợp một hoặc nhiều phương thức, ví dụ:
- Giới hạn dung lượng được sao chép: Đây là cách phổ biến nhất và quan trọng nhất. Hãy quên việc bạn cầm một quyển sách và chắc chắn mình được photo cả quyển đi, có thể bạn sẽ chỉ được photo tối đa 10% một quyển sách hoặc một tác phẩm, giả dụ như vậy.
- Đặt ra những điều kiện để không khuyến khích sao chép: Cái này nghe hơi buồn cười (kiểu cho gạo nhưng bắt dùng que để tạo ra lửa) nhưng nó là thực tế. Một ví dụ điển hình là không cho sử dụng thiết bị sao chép tự động (máy photocopy), thế là chỉ có chép tay
Một cách khác là loại bỏ tư duy “economic of scale”: kiểu một bạn sẽ tiện đi photo sách cho cả lớp (thì cuối cùng tính ra cũng vẫn chỉ là mỗi người một bản) – nhưng không, các cá nhân phải tự mình thực hiện việc photo như một điều kiện để hưởng ngoại lệ. - Đặt ra thuế cho việc sao chép và sau đó đưa khoản thuế đó trả cho các chủ thể quyền: Rồi, cuối cùng chúng ta cũng thấy có một phương án làm phát sinh xèng cho chủ thể quyền. Để tránh gây thiệt hại một cách bất hợp lý cho chủ thể quyền, rõ ràng là không gì bằng trả họ xèng. Nhưng sẽ là bất khả thi hoặc đi ngược lại mục tiêu của ngoại lệ QTG nếu chúng ta lại trả tiền cho từng chủ thể quyền cho mỗi lần photo, và vì thế nhiều nước đặt ra một khoản gọi là “copy levy”. Khoản này tạm hiểu là thuế đánh trên mỗi thiết bị sao chép như máy photocopy (do đây sẽ là những thiết bị để phục vụ vào quá trình private copying), thuế sau đó được đưa vào 1 quỹ để “bù đắp phần nào” cho các chủ thể quyền và đương nhiên nó không có tính bồi hoàn trực tiếp (cũng giống như các loại thuế khác).
Điều gì đến thì cũng đã đến
Nghị định 17 hướng dẫn QTG đã có một bước tiến lớn khi loại bỏ hai bước thử cuối, hay nói đúng hơn là chuyển hóa tinh thần của hai bước thử cuối vào những quy định tình huống cụ thể có tính dễ hiểu, dễ áp dụng “ready-to-follow” bằng 2/3 phương thức kể trên: giới hạn dung lượng sao chép (ví dụ: tối đa không quá 10% tổng số trang) và đặt ra những điều kiện để không khuyến khích sao chép (ví dụ: phải là hành vi độc lập với từng tổ chức, cá nhân thực hiện và nếu có sự lặp lại thì đó là các trường hợp riêng lẻ không liên quan đến nhau trên cùng một tác phẩm). Chỉ là không biết bao giờ nó mới đi vào đời sống đủ để người ta từ bỏ cái “myth” mình nói ở đầu. Mà nghe nói là Cục BQTG cũng đã có những cân nhắc nhất định về phước thức thứ 3 “đặt ra thuế cho việc sao chép” – nhưng điều này chắc sẽ còn phải rất lâu vì tưởng tưởng thôi là đã thấy nó khó thi hành như thế nào rồi.
© 2024. Minh Hung Tao. All rights reserved.


Leave a comment