Quyền Sử Dụng trong Sở Hữu Công Nghiệp

Đây là bài viết vốn để cho đăng báo nên văn phong hơi formal chút 🙂

ĐẶT VẤN ĐỀ

Điều 123.1(a) Luật SHTT quy định “sử dụng đối tượng SHCN” là một quyền tài sản của chủ thể quyền. Đáng nói là Công ước Paris về Quyền SHCN và Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền SHTT (TRIPS) không yêu cầu các quốc gia thành viên phải đặt ra “quyền sử dụng đối tượng SHCN”. Vậy liệu việc Luật SHTT quy định như vậy có hợp lý và cần thiết hay không?

Tại Việt Nam, tính đến nay, gần như chưa có một cuộc thảo luận công khai nào nhằm trả lời cho câu hỏi đó, mặc dù “quyền sử dụng đối tượng SHCN” đã được quy định một cách tường minh từ Bộ luật dân sự 2005 (Điều 751) và Luật SHTT 2005. Trong bài viết này, mình sẽ cố gắng đi tìm câu trả lời thông qua phân tích “quyền sử dụng đối tượng SHCN” dưới góc độ luật dân sự, luật SHTT và các luật chuyên ngành khác, đồng thời sẽ liên hệ tới một số các vụ việc có liên quan trên thế giới.

DƯỚI GÓC ĐỘ LUẬT DÂN SỰ

“Quyền tài sản đối với đối tượng SHCN” được BLDS coi là “quyền tài sản” và do đó là “tài sản”, lần lượt theo Điều 115 và 105. Việc đặt ra “quyền sử dụng đối tượng SHCN” mới nghe qua có vẻ bám sát tinh thần của BLDS do “quyền sử dụng” tài sản là một trong ba thành tố của quyền sở hữu, bên cạnh quyền chiếm hữu và quyền định đoạt tài sản. Nhưng khi lập luận như vậy, ta đang đánh tráo khái niệm khi coi “đối tượng SHCN” là tài sản, chứ không phải coi “quyền tài sản đối với đối tượng SHCN” là tài sản theo đúng quy định của Điều 115 BLDS. Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, hay nhãn hiệu tự thân chúng không phải là tài sản, chỉ có các quyền đối với các đối tượng đó do pháp luật trao cho chủ thể quyền mới được coi là tài sản. Do đó, việc quy định “quyền sử dụng đối tượng SHCN” hoàn toàn không phục vụ mục đích cá biệt hóa các quy định của BLDS về sở hữu vào Luật SHTT. 

DƯỚI GÓC ĐỘ LUẬT CHUYÊN NGÀNH KHÁC

Việc sử dụng trong thực tế các đối tượng SHCN có thể dẫn đến các hành vi vi phạm các luật chuyên ngành. Việc vận hành một quy trình công nghệ, dù đã được cấp bằng sáng chế nhưng gây ra những tác động xấu tới môi trường, vẫn có thể vi phạm luật bảo vệ môi trường. Một nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ bởi Cục SHTT, nhưng việc sử dụng nhãn hiệu đó hoàn toàn có thể cấu thành một hành vi vi phạm luật quảng cáo. Lúc đó, liệu “quyền sử dụng đối tượng SHCN” có thể loại trừ trách nhiệm của chủ thể quyền đối với các luật chuyên ngành kia không? Câu trả lời là “không”, vì Điều 7.2 Luật SHTT quy định việc thực hiện quyền SHTT (bao gồm “quyền sử dụng đối tượng SHCN”) không được xâm phạm/vi phạm (i) lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng; (ii) quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; và (iii) các quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy, “quyền sử dụng đối tượng SHCN” bị hạn chế bởi các luật chuyên ngành khác, như luật bảo vệ môi trường hay quảng cáo như trong các ví dụ trên đây. 

Tuy nhiên, sự hạn chế “quyền sử dụng đối tượng SHCN” bởi các luật chuyên ngành hoàn toàn có thể dẫn Nhà nước Việt Nam nói chung và các cơ quan nhà nước ban hành chính sách nói riêng đến các rủi ro pháp lý đối với pháp luật quốc tế ví dụ như về đầu tư, thương mại (như hai ví dụ được đưa ra sau đây) hay quyền con người. Uruguay và Australia đã từng bị khiếu nại ra, lần lượt, Trung tâm Quốc tế về Giải quyết Tranh chấp Đầu tư ICSID (trên cơ sở Hiệp định đầu tư Thụy Sỹ – Uruguay) và Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (trên cơ sở Hiệp định TRIPS) khi ban hành các quy định về “bao bì thuốc lá trơn” (tobacco plain packaging) kéo theo việc các công ty thuốc lá phải chấm dứt sử dụng một số các nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ và được sử dụng trong thời gian dài trước đó. Các Nguyên đơn trong hai vụ việc kể trên đều lập luận rằng (i) quyền đối với nhãn hiệu có bao gồm “quyền sử dụng” (dù luật SHTT của hai quốc gia này không hề quy định “quyền sử dụng” cho chủ sở hữu nhãn hiệu), và (ii) quy định về “bao bì thuốc lá trơn” là một hành vi tước đoạt gián tiếp (indirect expropriation) tài sản của nhà đầu tư hoặc hành vi vi phạm nghĩa vụ đối với Hiệp định TRIPS. Các lập luận này cuối cùng đều đã bị bác bỏ, nhưng từ các ví dụ này ta có thể thấy, một mặt “quyền sử dụng đối tượng SHCN” bị hạn chế bởi luật chuyên ngành, mặt khác, quyền này – nhất là khi được quy định một cách tường minh trong Luật SHTT – có thể sẽ được các thực thể nước ngoài sử dụng để phản đối các quy định của luật chuyên ngành của Việt Nam thông qua pháp luật quốc tế. 

DƯỚI GÓC ĐỘ LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Ngoài bị hạn chế bởi các quy định của các luật chuyên ngành, theo Điều 7.2 Luật SHTT, “quyền sử dụng đối tượng SHCN” cũng sẽ bị hạn chế nếu việc sử dụng đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp (nên được hiểu là bao gồm quyền SHTT) của các tổ chức, cá nhân khác. Quả thực, Điều 17.1 Nghị định 103/2006/NĐ-CP cũng đã làm rõ rằng đối tượng SHCN có thể “bị cấm sử dụng” nếu xung đột với quyền SHTT của tổ chức, cá nhân khác được xác lập trước. Không khó để đưa ra các ví dụ về các trường hợp xung đột quyền SHTT ngay cả khi các quyền đó được xác lập một cách hợp lệ, không chỉ giữa các loại đối tượng SHTT khác nhau, mà còn trong cùng một loại đối tượng SHTT. Một nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ thành công tại Cục SHTT có thể bị cấm sử dụng do là một bản sao/tác phẩm phái sinh trái phép của một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả trước đó của người khác. Một sáng chế có thể bị cấm sử dụng nếu việc sử dụng sáng chế đó kéo theo việc sử dụng các sáng chế khác được bảo hộ trước và vẫn còn hiệu lực của người khác (sáng chế cơ bản và sáng chế phụ thuộc theo Điều 137 Luật SHTT). Trong những trường hợp này, “quyền sử dụng đối tượng SHCN” cũng không thể làm căn cứ cho chủ thể quyền được tiếp tục sử dụng đối tượng SHCN của mình.

Đến đây, hẳn sẽ có thắc mắc rằng vậy “quyền sử dụng đối tượng SHCN” được quy định nhằm mục đích gì, khi mà nó gần như không cung cấp cho chủ thể quyền bất cứ một lợi ích thực tế nào. Vốn dĩ khi quyền SHCN chưa được xác lập, các “chủ thể quyền tiềm năng” vẫn có thể sử dụng các “đối tượng SHCN tiềm năng” nếu việc sử dụng đó không xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hay vi phạm các quy định của các pháp luật liên quan. 

Thực tế, quyền sử dụng đối tượng SHCN có thể giúp bảo vệ các chủ thể quyền SHCN ngay tình, trong các trường hợp có những xung đột nhất định giữa các quyền SHCN xác lập sau và quyền SHCN xác lập trước. Ví dụ A đăng ký bảo hộ thành công một cách trung thực nhãn hiệu (α), nhưng sau đó B yêu cầu A phải chấm dứt việc sử dụng nhãn hiệu (α) do việc sử dụng này xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu (β) của B đã được nộp đơn và đăng ký bảo hộ trước nhãn hiệu (α); lúc này “quyền sử dụng đối tượng SHCN” có thể đảm bảo cho A được sử dụng nhãn hiệu (α) chừng nào mà đăng ký nhãn hiệu (α) chưa bị hủy hiệu lực. Trong trường hợp này, xung đột giữa nhãn hiệu (α) và (β) thường không quá lớn (ít nhất Cục SHTT đã xác định là hai nhãn hiệu không tương tự tới mức gây nhầm lẫn), vậy nên việc không đảm bảo cho A khả năng được sử dụng nhãn hiệu (α) ngay cả khi đã đăng ký bảo hộ thành công có thể làm giảm động lực đăng ký nhãn hiệu một cách trung thực của các tổ chức, cá nhân – điều mà Nhà nước đang khuyến khích. Tuy nhiên, thay vì trao “quyền sử dụng đối tượng SHCN”, Luật SHTT có thể bảo vệ các chủ sở hữu nhãn hiệu ngay tình đó bằng quy định rằng: việc sử dụng một nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ sẽ không thể bị coi là xâm phạm quyền đối với (các) nhãn hiệu được xác lập trước, chừng nào mà văn bằng bảo hộ của nhãn hiệu đăng ký sau chưa bị hủy hiệu lực, tương tự như quy định của Liên minh châu Âu.

KẾT LUẬN

Tóm lại, việc đặt ra “quyền sử dụng đối tượng SHCN” trong Luật SHTT không nhằm thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam liên quan đến SHCN hay nhằm cá biệt hóa các quy định của BLDS về sở hữu vào Luật SHTT. Mặt khác, “quyền sử dụng đối tượng SHCN”, tuy không gây xung đột với các luật chuyên ngành khác, nhưng đặt ra rủi ro pháp lý cho Nhà nước Việt Nam liên quan đến pháp luật quốc tế về đầu tư, thương mại hay quyền con người khi Nhà nước đưa ra các chính sách có tác động hạn chế việc sử dụng đối tượng SHCN. Cuối cùng, vai trò của quyền sử dụng này trong phạm vi Luật SHTT cũng không thực sự rõ ràng, chỉ hữu dụng trong một số trường hợp đặc biệt nhằm bảo vệ các chủ thể xác lập quyền SHCN một cách trung thực khi có xung đột không thực sự rõ ràng với các quyền SHTT xác lập trước. Tuy nhiên, để bảo vệ các chủ thể đó, Luật SHTT có thể xem xét đặt ra quy định hẹp hơn, để thay thế cho quy định về “quyền sử dụng đối tượng SHCN” vốn có nhiều các “tác dụng phụ” chưa thể lường trước.

Trên thế giới, vẫn đang có những tranh cãi gay gắt về bản chất của quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng: liệu chúng chỉ là những quyền phủ định (negative rights) cho phép chủ thể quyền ngăn chặn các bên thứ ba sử dụng trái phép các đối tượng SHTT, hay có bao gồm cả quyền được sử dụng các đối tượng SHTT đó (positive/affirmative right to use). Những tranh cãi như vậy có thể sẽ không có hồi kết, việc tham gia vào những cuộc tranh luận này đối với các nhà lập pháp Việt Nam có thể chưa cần thiết, và thực tế cũng chưa có nghĩa vụ quốc tế nào yêu cầu Việt Nam phải loại bỏ “quyền sử dụng đối tượng SHCN”. Tuy nhiên, khi mà Chính phủ, cụ thể là Bộ Khoa học và Công nghệ, đang trong quá trình soạn thảo và đề xuất sửa đổi Luật SHTT, việc cân nhắc lại một cách nghiêm túc về vai trò, mục đích và nội hàm của “quyền sử dụng đối tượng SHCN” cũng như phân tích lợi ích – chi phí của quyền này đối với các đối tượng có lợi ích liên quan (Nhà nước, chủ thể quyền, công chúng) rất cần được thực hiện. 

© 2021. Minh Hung Tao. All rights reserved.

Responses

  1. jean2211 Avatar

    Dưới góc độ luật dân sự thì cũng có một cách giải thích khác.

    Điều 105 khi nói về các loại tài sản (gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản) thì thực chất là đang phân loại “hình thức thể hiện” của các quyền có giá trị tiền tệ – cái được xem là tài sản thực sự. Nói một cách khác, tài sản chỉ có thể là các quyền có giá trị tiền tệ vì thực chất chỉ có “quyền lợi” mới đem lại giá trị cho vật và các lợi ích thực sự cho chủ thể quyền. Vật hữu hình được xem là tài sản khi người ta có quyền sở hữu nó. Quan niệm này vốn dựa trên cách giải thích Luật La Mã khi phân biệt tài sản hữu hình (như nhà cửa, xe cộ) và tài sản vô hình (như trái quyền – quyền yêu cầu – và vật quyền khác). Trong đó, vật hữu hình chính là quyền sở hữu vì khi nói đến “căn nhà này của tôi” tức đồng nghĩa tôi có quyền sở hữu căn nhà này: quyền sở hữu và vật đã hòa nhập làm một. Nhưng khác với quyền sở hữu, các quyền lợi khác không bị hòa nhập với đối tượng của quyền, và do đó giữ nguyên tính vô hình vô, thể của mình. Tóm lại, trong bối cảnh này, tài sản được hiểu là các quyền có giá trị, bao gồm: quyền sở hữu (thể hiện qua vật), và các quyền tài sản khác (có thể được thể hiện bằng chứng khoán hoặc hình thức khác).

    Cách hiểu trên dẫn đến ba hệ quả:

    Thứ nhất: Khái niệm tài sản ở phần thứ nhất (quy định chung) có nghĩa khác với nghĩa tài sản – với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu ở phần thứ hai (về quyền sở hữu).

    Thứ hai: quyền sở hữu – theo quy định của bộ luật dân sự – chỉ có thể có đối tượng là những vật hữu hình. Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền tương tự, nhưng chịu chế độ riêng (từ nội dung, tính chất, chế tài đến thời hạn).

    Thứ ba: quan hệ sở hữu giữa chủ thể và “tài sản” theo nghĩa trên hay quan hệ giữa chủ thể và quyền là một quan hệ “có”. Một người “có quyền” do luật công nhận chứ không thực sự sở hữu gì cả, tương tự như không ai nói tôi sở hữu cái quyền sở hữu mà chỉ nói là tôi có quyền sở hữu.

    =>> Với cách tiếp cận trên, thì quy định của Luật SHTT không mâu thuẫn BLDS. Bởi lẽ quyền sở hữu trí tuệ là một quyền riêng thuộc chế độ riêng chứ không phải là đối tượng của quyền sở hữu theo BLDS.

    Thực ra, pháp luật VN hiện tại có xu hướng xem quyền sở hữu trí tuệ nói chung là một dạng quyền sở hữu. Nghĩa là, theo quan điểm lập pháp, quyền sở hữu có hai loại, quyền sở hữu vật hữu hình theo quy định của BLDS và quyền sở hữu trí tuệ theo luật riêng. Điều này được luật SHTT khẳng định qua định nghĩa quyền sở hữu trí tuệ là quyền đối với “tài sản trí tuệ” – chứ không phải là “tài sản thông thường” hay “tài sản hữu hình”. Điều này cũng cho thấy, luật SHTT muốn xem quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu đối với sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu …. và nói chung các “tài sản trí tuệ” trong lĩnh vực này.

    Like

    1. minhhungtao Avatar

      Ở đây mình không nói là quyền sử dụng SHCN mâu thuẫn với BLDS, mà chỉ là quy định của BLDS không phải là căn cứ để phải đặt ra quyền sử dụng cho SHCN thôi.

      Like

Leave a comment