“Originality” và “Creativity” trong Quyền tác giả

“Originality” (tính nguyên gốc) là một điều kiện cốt lõi để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Tuy nhiên, mỗi khi nhắc đến yếu tố này, nhiều người ngay lập tức gọi nó bằng một từ khác quen thuộc hơn, dễ hiểu hơn đó là “creativity” (tính sáng tạo). Liệu hai khái niệm này có thể dùng thay thế cho nhau đơn giản như vậy không?

Luật Việt Nam dùng “sáng tạo” thay thế hoàn toàn cho “nguyên gốc”, ví dụ quy định (i) quyền tác giả phát sinh khi tác phẩm được sáng tạo ra […]; (ii) tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm; và (iii) tác phẩm được bảo hộ phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác. Cũng dễ hiểu vì từ “nguyên gốc” không thực sự thân thuộc với người Việt lắm.

Thế nhưng ngay cả ở Mỹ, nơi mà từ “original” có lẽ phổ thông hơn từ “nguyên gốc” ở Việt Nam, người ta cũng có xu hướng quy nó về “creative”. Trong vụ án huyền thoại Feist v. Rural, tính nguyên gốc được quy đổi thành “ít nhất một lượng nhỏ sự sáng tạo” (at least a modicum of creativity). Vì luật Việt Nam dùng “sự sáng tạo” làm điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả, người học thường rất dễ đặt ra câu hỏi “vậy sáng tạo bao nhiêu thì đủ”, và mỗi lúc như thế, nhận định của tòa trong vụ án Feist v. Rural thực sự là một cứu cánh, dù nó cũng mơ hồ vl.

Thế nhưng “originality” cụ thể là gì mà ai cũng né nó thế? Thực tế thì luật VN đã gián tiếp giải thích “originality” là “trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác”. Cơ mà làm sao để biết một tác phẩm là “tự” tác giả tạo ra? Trừ phi chúng ta biết được chính xác những gì xảy ra trong não của tác giả, và trừ phi chúng ta là chính tác giả, còn không thì không bao giờ chúng ta kết luận chắc chắn được là người ta có “tự” hay không. Kể cả tận mắt nhìn thấy người đó đặt một quyển sách ở trước mặt, trong khi tay cầm bút viết xuống y hệt, thì cũng không thể kết luận 100% là người ta “sao chép” – vì có thể não người ta lúc đó hoàn toàn không tiếp nhận những gì người ta thấy ở quyển sách, và tay họ viết xuống nội dung hoàn toàn do não họ “tự” tạo ra (và chẳng may nó giống).

Chính vì sự bất khả thi của việc xác định ý thức chủ quan của tác giả khi tạo ra tác phẩm, để đánh giá liệu một tác phẩm có nguyên gốc hay không, người ta buộc phải đánh giá qua những thứ khách quan mà người ta có thể kiểm chứng được, dù nó không đầy đủ: đó là tính sáng tạo. Giả dụ bây giờ mình chưa từng đọc, nghe, hay xem bất kỳ nội dung gì liên quan đến God Father, nhưng mình lại viết được một tác phẩm giống y hệt như God Father thì lúc đó rõ ràng tác phẩm của mình đạt tiêu chí “original” theo luật định, nhưng người đời ở góc độ khách quan thì sẽ nói nó “không sáng tạo” vì nó giống y hệt thứ mà người ta đã đọc, nghe, và xem hàng chục năm nay. Và tưởng tượng nếu tòa án phải xác định xem tác phẩm mình viết có nguyên gốc hay không, họ sẽ dựa vào điều gì? Đương nhiên cái đầu tiên họ dựa vào là tác phẩm của mình giống bao nhiêu % so với tác phẩm của Mario Puzo đã có trước đó, và nếu kết quả là 99% thì mình không nghĩ là họ sẽ dành thời gian nghe mình tâm sự về “originiality” của tác phẩm của mình (chưa kể là còn chưa biết tâm sự kiểu gì đây cơ).

Nói cách khác thì chúng ta đang buộc phải dùng “tính sáng tạo” thay vì “tính nguyên gốc” vì chúng ta chỉ có thể kiểm chứng được “tính sáng tạo” mà thôi. Thế chẳng lẽ cứ thế mãi à? Cũng không hẳn, chúng ta có thể chờ đợi vào sự tiến bộ của khoa học thần kinh (neuroscience) một ngày nào đó sẽ cho phép người ta kiểm chứng chính xác được những gì xảy ra trong não của tác giả, và khi đó chúng ta có thể đánh giá trực tiếp và chính xác “originality” của một tác phẩm, thay vì luôn phải thông qua một thước đo khác mang tên “creativity”.

P/S: “Tính nguyên gốc” cũng là một điểm khác biệt quan trọng của Quyền tác giả đối với các đối tượng IP khác dựa trên tính sáng tạo như sáng chế hay KDCN. Trong khi tính nguyên gốc của Quyền tác giả là sự sáng tạo chủ quan xảy ra trong đầu của tác giả, thì sự sáng tạo trong sáng chế và KDCN là sự sáng tạo mang tính khách quan vì cái cần xét không phải tác giả sáng chế/KDCN đã nghĩ gì, mà quan trọng là cái đối tượng đó khác biệt thế nào đối với các “prior arts” (các giải pháp kỹ thuật, kiểu dáng đã có trước đó). Và điều này cũng giải thích vì sao trong quyền tác giả, hai tác phẩm giống hệt nhau có thể đồng thời được bảo hộ (trường hợp hai tác phẩm được tạo ra hoàn toàn độc lập: “independent creation”), trong khi điều đó lại không thể tồn tại trong sáng chế hay KDCN (nên nói rằng sáng chế và KDCN có khả năng ngăn chặn: “blocking effect”).

© 2024. Minh Hung Tao. All rights reserved.

Response

  1. Maimai Nguyen Avatar

    Bài viết hay quá ạ! Hoá ra trước đến giờ mình toàn hiểu sai về Original và Creative …

    Ty..

    Like

Leave a comment